Cảo bản: Dược liệu quý chữa được nhiều chứng bệnh

Theo các tài liệu cổ, Cảo bản có vị cay, ôn, không độc, có năng lực tán phong, hàn, chữa chứng nhức óc, là thuốc khu phong, chữa ung nhọt, thường dùng chữa chứng âm hộ lạnh, sưng đau nhức, nhức đầu, còn dùng gội đầu cho sạch gầu.

Cảo bản: Dược liệu quý chữa được nhiều chứng bệnh
Cây và hoa cảo bản (nguồn internet)

Cảo bản là một vị thuốc tương đối thông dụng trong đông y. Vì gốc cây như gốc lúa (cảo – lúa, bản – gốc) do đó có tên cảo bản. Trên thị trường có 2 loại cảo bản:

  1. Bắc cảo bản. Rhizoma et Radix Ligustici jeholensis còn gọi là hương cảo bản là thân rễ và rễ của cây liêu cảo bản Ligusticum jeholense Nak. et Kitaga (Cnidium jeholense Nak. et Kitaga), thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
  2. Tây khung cảo bản – Rhizoma et Radix Ligustici sinensis – còn gọi là tây khung là thân và rễ của cảo bản hay tây khung Ligusticum sinense Oliv., cũng thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).

Ở nước ta, các lương y thường không để ý phân biệt và chỉ dùng chung với tên cảo bản vì cho đến nay ở nước ta chưa trồng và khai thác cảo bản.

A. Mô tả cây

Cây liêu Cảo bản (Ligusticum jeholense) là một cây sống lâu năm, cao 0,15-0,6m thân rễ ngắn, toàn cây rất thơm, thân mọc thẳng đứng, phía dưới có đường kính 3-5mm, thường có màu tím. Lá 2 lần kép lông chim mép có răng cưa, cuống lá phát triển thành bẹ ôm lấy thân. Cụm hoa hình tán kép 6-19 cuống tán, dài ngắn không đều, tán nhỏ mang chừng 20 hoa nhỏ màu trắng. Quả gồm 2 phân quả dính nhau, hình thoi, dài chừng 5mm trên mỗi phân quả có 5 sống dọc, mặt tiếp giáp phẳng.

Cây tây khung (Ligusticum sinense) cũng là một cây sống lâu năm. Lá mọc so le 2-3 lần xẻ lông chim kép, cuống lá dài 9-12cm phía dưới ôm lấy thân cây. Cụm hoa hình tán kép, mỗi tán 16-20 cuống, mỗi tán nhỏ mang nhiều hoa nhỏ màu trắng. Quả cũng gồm 2 phân quả mỗi phân quả cũng có 5 sống chạy dọc, nhưng giữa sống của quả tây khung có tới 3 ống tinh dầu, trong khi đó quả liêu cảo bản chỉ có một ống tinh dầu.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Hiện nay ta còn phải nhập của Trung Quốc. Tại Trung Quốc, liêu cảo bản chủ sản ở Hà Bắc, rồi đến Sơn Tây, Liêu Ninh, Cát Lâm, Nội Mông. Loại này vừa dùng trong nước, vừa để xuất khẩu một ít.

Vào các tháng 4-10 đào lấy rễ và thân rễ, cắt bỏ phần trên mặt đất, rửa sạch đất cát, phơi khô.

Cảo bản: Dược liệu quý chữa được nhiều chứng bệnh
Rễ và cây Cảo bản (nguồn internet)

C. Thành phần hóa học

Trong cảo bản của Trung Quốc chỉ mới biết có chứa tinh dầu, các thành phần khác chưa thấy tài liệu nghiên cứu.

Trong một loại cảo bản của Nhật Bản có tên khoa học là Northsmymium japonicum Miq. Cùng họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae), người ta đã thấy có chừng 1,3% tinh dầu; trong tinh dầu thành phần chủ yếu là nothosmyrnola 2-4 (CHO),CH3-CH=CH-CH3 chất dimetoxyalylbenzola và một lượng nhỏ axit panmitic.

D. Công dụng và liều dùng

Tính chất cảo bản theo các tài liệu cổ như sau: Vị cay, ôn, không độc, có năng lực tán phong, hàn, thấp tà, chữa chứng nhức óc, là thuốc khu phong, táo thấp, chữa ung nhọt, thường dùng chữa chứng âm hộ lạnh, sưng đau nhức, nhức đầu, còn dùng gội đầu cho sạch gầu. Ngày dùng 3 đến 6g dước dạng thuốc sắc; Dùng ngoài không có liều lượng nhất định.

Đơn thuốc có Cảo bản dùng trong đông y:

Chữa trẻ con ghẻ lở, chốc đầu: Sắc nước cảo bản dùng tắm và giặt quần áo.

Chữa nhiều gầu: Cảo bản, bạch chỉ hai vị bằng nhau tán nhỏ đem sát vào đầu, sáng hôm sau gội đầu, thì chóng hết gầu.

Chữa nhức đầu, thiên đầu thống: Cảo bản 6g, xuyên khung 3g, phòng phong 5g, bạch chỉ 3g, tế tân 2g, cam thảo 3g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày, sau khi ăn cơm xong, uống lúc còn nóng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *