Cây bình vôi là một cây dạng dây leo, có lá hình tim, thân cây mảnh rất nhỏ so với củ, cây thường dài khoảng 10-20m.
Gốc thân phình thành củ, thường hình cầu, nằm nửa chìm nửa nổi trong khe đá hay chìm trong đất. Kích thước củ thay đổi và có thể nặng đến vài chục kg, tùy loài.
Vì củ to nên cây còn được gọi là cây ngải tượng.
Cây bình vôi thường mọc hoang ở những vùng núi đá hay núi đất tại các tỉnh miền núi phía Bắc như Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hóa, Hòa Bình, Quảng Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tây và tại một số khu vực đất cát, có bóng mát hoặc đồng bằng ven biển như An Giang, Kiên Giang.
Tuy nhiên, những cây từ núi đá thường có phần củ, lá to và chất lượng hơn. Do hình dáng đặc biệt, ngoài dùng làm thuốc, hiện nay, cây bình vôi còn được trồng làm bonsai, cây cảnh.
1. Bộ phận nào được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền?
Bộ phận dùng làm dược liệu là củ của cây bình vôi. Củ là phần gốc của thân cây phình ra. Củ được thu hoạch quanh năm, nhưng nếu thu hoạch vào tầm mùa thu sang mùa đông thì hoạt chất trong củ sẽ đạt chất lượng tốt hơn.
Củ bình vôi cần được trải qua quá trình bào chế mới sử dụng được, thường là cạo bỏ vỏ đen ở ngoài hoặc thái thành miếng trước khi ép chiết lấy tinh chất hoặc ngâm rượu hoặc phơi, sấy khô hoặc cà thành bột.
Củ bình vôi cần được chế biến trước khi sử dụng làm thuốc chữa bệnh.
2. Vì sao củ bình vôi là ‘khắc tinh’ của bệnh mất ngủ lâu năm?
Theo Y học hiện đại, thành phần hóa học của củ bình vôi chứa chủ yếu là các alkaloid như rotundin, cycleanin, stepharin, roemerin.
Rotundin có tác dụng an thần, gây ngủ, giảm đau rõ rệt; cycleanin có tác dụng kháng viêm; roemerin có tác dụng gây tê tại chỗ; stepharin có tác dụng kháng cholinesterase. Từ đó các chế phẩm thuốc từ củ bình vôi có tác dụng duy trì trạng thái thư giãn, an thần, trị mất ngủ.
Theo y học cổ truyền, cây bình vôi có vị đắng ngọt, tác dụng an thần, bổ phế, trấn kinh, khắc phục được các chứng suy nhược, thất miên, cốt chưng, huyễn vựng, suyễn thở. Thường phối hợp với các vị thuốc khác với liều dùng 4 – 12g, dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.
3. Bài thuốc chữa bệnh từ bình vôi
– Chữa mất ngủ do căng thẳng, stress, áp lực công việc
Bài 1: Củ bình vôi, lạc tiên, lá vông nem, mỗi vị 12g, liên tâm 6g, cam thảo 6g. Sắc uống, ngày một thang.
Bài 2: Hạt sen, long nhãn, nhân hạt táo chua (sao) mỗi vị 10 – 15g, củ bình vôi 8g, lá vông nem 12g. Sắc uống ngày 1 thang, uống trong ngày và trước khi ngủ 30 phút.
Bài 3 – Rượu trắng ngâm củ bình vôi: Củ bình vôi phơi khô và rượu trắng 40 độ theo tỷ lệ 1:5 (1kg củ phơi khô và 5 lít rượu). Ngâm khoảng 4 tuần là dùng được, uống ngày 2-3 lần, mỗi lần khoảng 20-30 ml.
Củ bình vôi sử dụng trong thuốc thang và ngâm rượu có tác dụng chữa mất ngủ.
– Chữa viêm nhiễm đường hô hấp trên: Củ bình vôi, huyền sâm, cát cánh, mỗi vị 12g, trần bì 10g. Sắc uống, ngày một thang.
– Hỗ trợ chữa viêm đau khớp do gout:
Dùng 3 – 6gram bột củ bình vôi khô tán ra, hòa cùng với nước nóng và sử dụng đều đặn hàng ngày. Cần uống hết trong ngày và bảo quản bột trong bình kín tại nơi khô ráo để bột còn nguyên dưỡng chất.
Bột củ bình vôi chữa viêm đau khớp do gout.
4. Lưu ý khi dùng các chế phẩm từ củ bình vôi chữa mất ngủ
Do có tính chất an thần, gây ngủ nên khi sử dụng cần thận trọng khi lái xe, làm việc trên cao hoặc những công việc liên quan máy móc cần sự tỉnh táo.
Hoạt chất roemerin có trong củ bình vôi nếu sử dụng quá nhiều sẽ gây tê niêm mạc và làm giảm nhịp đập của tim. Nếu bệnh nhân có tiền sử biến cố tim mạch, rối loạn nhịp tim thì cần phải rất thận trọng.
Trong củ bình vôi cũng có một ít độc tố, bệnh nhân không nên tự ý sử dụng khi chưa có chỉ định của người có chuyên môn.
Chỉ dùng 30gr bình vôi 1 ngày, trên 30gr có thể gây ngộ độc, ảnh hưởng tới sức khỏe.
Các đối tượng người cao tuổi mất ngủ kinh niên, phụ nữ đang mang thai hoặc đang cho con bú …cần thận trọng.
Hiện nay, trên thị trường có khá nhiều sản phẩm có thành phần được chiết xuất từ củ bình vôi. Liều dùng thường là 30-60 mg dưới dạng viên. Dùng quá liều các chế phẩm này có thể gây ngộ độc.
Nhẹ có thể gây buồn ngủ, buồn nôn, nôn, hoa mắt chóng mặt, nặng có thể kích thích, vật vã, tức ngực, trống ngực, chân tay bủn rủn, hôn mê…
Vì thế người bệnh nên đọc kỹ hướng dẫn hoặc trao đổi với nhân viên y tế trước khi dùng.